Lăng Hoàng Gia, rộng 2.000 m2, tọa lạc tại xã Long Hưng, thị xã Gò Công sau sáp nhập là phường Sơn Qui, tỉnh Đồng Tháp cách trung tâm thị xã cũ khoảng 2 km. Đây là nơi thờ tự và lăng mộ của dòng họ Phạm Đăng, trong đó có ông Phạm Đăng Hưng (1764-1825), hậu duệ đời thứ tư, thân sinh Hoàng thái hậu Từ Dũ - mẹ vua Tự Đức.
Ông Phạm Đăng Hưng nổi tiếng là người thông minh, văn tài, hiền đức làm quan dưới hai triều vua Gia Long và Minh Mạng, được bổ nhiệm chức Lễ bộ Thượng thư, truy phong Đức Quốc Công. Ông còn được người đời truyền tụng về tấm lòng với dân nghèo, đi đâu ông cũng mang theo ba bịch ngũ cốc để phân phát.
Một năm sau khi ông mất, triều đình nhà Nguyễn xây dựng mộ theo kiến trúc lăng tẩm cho đại thần thời bấy giờ. Khu mộ đặt tại gò Sơn Qui cũng là nơi dòng họ Phạm Đăng chọn sinh sống khi rời Huế.
Lạ thay, trong khi các vùng đất khác đều bị nhiễm mặn, thì gò Sơn Qui vẫn có mạch nước ngọt, cây cối tốt tươi, đúng như Nguyễn Liên Phong mô tả trong "Từ Dũ Hoàng Thái Hậu truyện". "Nước ngọt trổ điềm lành. Gò Rùa vun đất phước". Ngày nay, trong khuôn viên lăng còn có giếng nước cổ xây bằng gạch vồ. Qua hàng trăm năm, nước trong giếng luôn đầy và trong vắt.
Về mặt kiến trúc, ngoài cùng lăng là La Thành, bên trong là Sân Chầu, Nhà Bia và hệ thống mộ dòng họ Phạm Đăng. Mộ chôn theo một trục dài, làm bằng hồ ô dước, bao bọc chung quanh bằng một lớp tường dày, cao 90 cm.
Lăng mộ Đức Quốc Công được coi là tâm điểm của quần thể kiến trúc lăng mộ tại gò này. Mộ bát giác hình đỉnh trụ, mang dáng dấp một chiếc nón quan triều, khác biệt với các mộ thông thường ở Nam bộ. Trước mộ có bốn trụ thấp cách điệu giữa búp sen và chiếc nón. Bình phong được xây khá cầu kỳ, đường nét rất uyển chuyển, làm cho ngôi mộ trở nên cổ kính và đầy uy lực.
Trong hợp thể kiến trúc tại khu Lăng Hoàng Gia, có một kiến trúc quan trọng là đền thờ Đức Quốc Công và dòng họ Phạm Đăng, nằm trên con đường đi vào khu lăng mộ. Ngôi từ đường được xây dựng năm 1826 hoàn thiện dưới thời Tự Đức, gồm một nhà thờ, nhà khách, nhà kho, tàu ngựa cùng các công trình phụ như các hồ sen, chậu kiểng... Các ngôi nhà đều được làm bằng gỗ quý, mái ngói, tường xây, nội thất được trang trí rất đẹp.
Ngoài ra, lăng có đến hai nhà bia mà phía sau là câu chuyện ly kỳ về tấm bia bị thất lạc. Tấm bia đầu tiên hoàn thành năm Tự Đức thứ 10 (1857) song biến mất bí hiểm khi chở bằng thuyền từ Huế vào Gò Công. Hơn 4 thập kỷ sau, vua Thành Thái cho dựng nhà bia thứ hai bằng đá hoa cương.
Câu chuyện tấm bia thất lạc sau đó được giải mã khi một nghĩa địa ở TP. HCM giải tỏa, người dân tìm thấy một tấm bia vừa khắc bằng chữ Nho vừa có chữ Pháp. Tấm bia kỳ lạ được gửi đến Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh. Qua giám định, các nhà sử học xác định đây là bia do Tự Đức ban tặng cho ông ngoại Phạm Đăng Hưng nhưng bị quân Pháp cướp làm mộ bia cho Đại úy Barbé. Tấm bia sau đó được chuyển về đúng chỗ sau 140 năm lưu lạc.
Di tích Lăng Hoàng Gia được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích cấp quốc gia vào năm 1992. Ngày nay, Lăng Hoàng Gia không chỉ là nơi tưởng nhớ tiền nhân mà còn là điểm đến văn hóa - lịch sử đặc sắc của vùng đất Gò Công. Giữa không gian thoáng đãng, hàng cây cổ thụ rợp bóng, khu lăng mang vẻ trang nghiêm, gợi cho du khách cảm giác như bước vào miền ký ức của triều Nguyễn, nằm bên dòng Tiền Giang hiền hòa.
Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đồng Tháp, thời gian tới, tỉnh sẽ tiếp tục khai thác giá trị lịch sử - văn hóa của Lăng Hoàng Gia, gắn với việc bảo tồn không gian kiến trúc và những câu chuyện gắn liền với dòng họ Phạm Đăng. Đặc biệt sắp tới, sở sẽ phối hợp với Viện nghiên cứu phát triển Kinh tế và Du lịch tư vấn cho tỉnh triển khai xây dựng thêm các sản phẩm du lịch đặc trưng tại khu di tích Lăng Hoàng Gia, hình thành tour du lịch đêm nhằm mang lại trải nghiệm mới mẻ cho du khách.
Lăng Hoàng Gia cũng sẽ được kết nối trong tuyến tham quan liên hoàn với các điểm đến lân cận như Nhà Đốc Phủ Hải, Đền thờ Anh hùng Trương Định, tạo thành chuỗi du lịch văn hóa - lịch sử đặc sắc của vùng Gò Công. Hoạt động phát triển du lịch tại đây được định hướng theo hướng bền vững, kết hợp tưởng niệm tiền nhân, giáo dục truyền thống yêu nước, đồng thời góp phần gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa của địa phương.












